Giá dịch vụ thoát nước - Từ Cơ sở pháp lý đến Tổ chức thực hiện

Tóm tắt: Trong thời gian vừa qua, dư luận có nhiều ý kiến liên quan đến Giá dịch vụ thoát nước, bài viết xin tóm tắt một số nội dung của vấn đề này bao gồm: sự cần thiết, các cơ sở pháp lý, tổ chức triển khai, những bất cập/khó khăn trong việc tổ chức thực hiện.

1. Khái quát chung/sự cần thiết


Dịch vụ thoát nước đô thị theo quy định hiện hành là loại dịch vụ công ích có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người dân đô thị và bảo vệ môi trường tự nhiên. Hoạt động dịch vụ thoát nước đô thị có hiệu quả góp phần bảo vệ nguồn nước, cải thiện điều kiện vệ sinh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm tỷ lệ tử vong, bệnh tật của con người, đồng thời nâng cao chất lượng sống tại các đô thị.

Nhận thức được tầm quan trọng của dịch vụ thoát nước đối với sự phát triển bền vững, trong những năm qua, Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp đã tập trung đầu tư từ nguồn vốn nhà nước/nguồn vốn ODA từ các tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài cho phát triển hệ thống thoát nước đô thị Việt Nam, nhiều đô thị các công trình thoát nước và xử lý nước thải đã được đầu tư mới, đầu tư cải tạo, nâng cấp song vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. Mặt khác nguồn kinh phí  dành cho công tác duy tu, duy trì, vận hành, khai thác hệ thống thoát nước đô thị chủ yếu cũng vẫn từ ngân sách nhà nước, việc thu từ người sử dụng dịch vụ còn rất thấp.

Do khó khăn về ngân sách không chỉ tại các đô thị vừa và nhỏ mà ngay tại các đô thị lớn kinh phí dành cho các hoạt động duy tu, duy trì, quản lý vận hành, khai thác hệ thống thoát nước đô thị cũng chỉ đủ để duy trì hoạt động và không đủ để cải thiện và mở rộng dịch vụ thoát nước chưa nói đến phải trả nợ vốn vay mà hầu hết việc đầu tư xây dựng cho hệ thống thoát nước trong những năm qua đều vay từ nguồn vốn nước ngoài. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân đô thị mà nhiều hệ thống thoát nước ở các đô thị Việt Nam đang bị xuống cấp nghiêm trọng do không có đủ vốn để cải tạo, sửa chữa, nâng cấp hoặc đầu tư xây mới.

Huy động các nguồn vốn cho đầu tư và quản lý, vận hành và khai thác hệ thống thoát nước đô thị, nâng cao dịch vụ thoát nước đô thị, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường đó là trách nhiệm của chính quyền các cấp và đặc biệt phải có sự tham gia của người dân sống trong đô thị. Một trong những biện pháp được áp dụng đó là chia sẻ chi phí thông qua áp dụng giá dịch vụ thoát nước. Vấn đề đặt ra đó là chính sách chia sẻ chi phí phải như thế nào để đảm bảo các đơn vị quản lý vận hành hệ thống thoát nước có nguồn thu để chủ động trang trải các hoạt động duy tu, duy trì, vận hành, khai thác hệ thống thoát nước, giảm dần trợ cấp từ nguồn ngân sách vừa đảm bảo khả năng thanh toán/chi trả của người sử dụng dịch vụ, đồng thời tăng cường trách nhiệm của người dân đối với xả thải nước thải ra nguồn tiếp nhận và cũng thông qua việc trả tiền dịch thoát nước người dân thực hiện quyền giám sát các hoat động của đơn vị quản lý vận hành hệ thống thoát nước tại đô thị nơi mình sinh sống.

2. Các cơ sở pháp lý

2.1. Về Giá dịch vụ thoát nước

Cách đây 13 năm tại Nghị định số 88/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 (NĐ88/2007) của Chính phủ về Thoát nước đô thị và khu công nghiệp đã có quy định về Phí thoát nước trong đó đã làm rõ: Phí thoát nước là phí bảo vệ môi trường đối với nước thải áp dụng cho các khu vực đô thị và khu công nghiệp có hệ thống thoát nước tập trung. Đối tượng thu phí này là tất cả các hộ thoát nước xả thải vào hệ thống thoát nước có nghĩa vụ trả phí này. Phí này được xác định theo tỷ lệ % và không thấp hơn 10% giá tiêu thụ nước sạch áp dụng cho các đối tượng sử dụng nước khác nhau. Song song với Nghị định này có Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải áp dụng cho các hộ thoát nước xả thải trực tiếp ra môi trường. Phí này cũng được xác định theo tỷ lệ %  trên giá tiêu thụ nước sạch. 

Cách đây 6 năm Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 (NĐ80/2014) của Chính phủ về Thoát nước và xử lý nước thải thay thế Nghị định số 88/2007/NĐ-CP trình bày ở trên trong đó chuyển đổi từ Phí thoát nước thành Giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải  (gọi tắt là Giá dịch vụ thoát nước). Nếu theo NĐ 88/2007 Phí thoát nước được xác định trên % giá tiêu thụ nước sạch thì Giá dịch vụ thoát nước theo NĐ80/2014 được xác định dựa trên toàn bộ chi phí sản xuất được tính đúng, tính đủ và mức lợi nhuận hợp lý cho một m3 nước thải để thực hiện nhiệm vụ thoát nước và xử lý nước thải. Việc xác định giá dịch vụ xử lý 1m3 nước thải tuân thủ theo Thông tư hướng dẫn phương pháp định giá số 13/2018/TT-BXD của Bộ Xây dựng.

Về Quản lý và sử dụng nguồn thu từ dịch vụ thoát nước: Cũng có nhiều câu hỏi đặt ra nguồn thu từ dịch vụ thoát nước được sử dụng như thế nào? Tại điều 44 NĐ80/2014 đã quy định: (a) Chi trả cho dịch vụ đi thu, đánh giá, lấy mẫu phân tích nước thải hàm lượng COD; (b) Chi trả dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải; (c) Đầu tư để duy trì và phát triển hệ thống thoát nước; (d) Các chi phí hợp lệ khác theo quy định.

2.2 Về Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Ngày 5/5/2020, Chính phủ ban hành NĐ số 53/2020/NĐ-CP về Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ( NĐ này thay thế NĐ số 154/2016, NĐ 67/2003… trước đây) đã quy định:

Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường theo quy định tại Nghị định này là nước thải công nghiệp thải vào nguồn tiếp nhận nước thải theo quy định pháp luật và nước thải sinh hoạt, trừ trường hợp miễn thu phí theo quy định tại Điều 5 Nghị định này. Tại khoản 7 của Điều 5 quy định: “ Nước thải của các hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị (theo quy định tại Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06 tháng 8 năm 2014 của Chính phủ về thoát nước và xử lý nước thải) đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo quy định trước khi thải vào nguồn tiếp nhận”.

Như vậy theo quy định được hiểu một hộ thoát nước/xả nước thải sinh sống tại đô thị kết nối với hệ thống thoát nước của đô thị đã nộp tiền dịch vụ thoát nước theo NĐ80/2014 thì không phải nộp phí môi trường và không có chuyện phải trả cả 2 loại như trên một vài phương tiện đại chúng đã thông tin.

Quản lý và sử dụng nguồn thu từ phí này cũng đã được quy định tại Điều 3, Điều 9 của Nghị định này.
 
3. Tình hình tổ chức triển khai thực Nghị định 80/2014 liên quan đến Giá dịch vụ thoát nước

3.1 Việc thực hiện NĐ 80/2014 có liên quan đến Giá dịch vụ thoát nước tại các địa phương có thể chia thành hai nhóm

Nhóm 1: Các tỉnh/thành phố vẫn áp dụng duy nhất phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (theo NĐ 53/2020) cho tất cả các hộ thoát nước/ hộ xả nước thải (Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh….. đang nằm trong nhóm này).

Phí môi trường được áp dụng với mức rất thấp chỉ bằng 10% giá nước sạch. Về con số tuyệt đối, mức phí này chỉ dao động khoảng 500 - 600 đồng/m3 nước sạch, tương ứng với nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường này nhìn chung là quá thấp. Như vậy nguồn kinh phí cho duy tu, duy trì, vận hành, khai thác hệ thống thoát nước tại các đô thị cơ bản vẫn từ nguồn ngân sách nhà nước là chính.

Nhóm 2: Các tỉnh/thành phố áp dụng song song cả phí môi trường đối với nước thải và giá dịch vụ thoát nước, trong đó phí môi trường áp dụng đối với hộ xả thải trực tiếp ra môi trường (các hộ sinh sống tại các khu vực ngoại thành nơi đây chưa có hệ thống thoát nước) và giá dịch vụ thoát nước áp dụng cho các hộ xả thải vào hệ thống thoát nước tập trung ( các hộ sinh sống tại các khu vực nội đô đã có hệ thống thoát nước). 

Để thực hiện thu tiền sử dụng dịch vụ thoát nước theo thống kê cho đến nay đã có khoảng trên 20 tỉnh/thành phố (Đà Nẵng, Hải Phòng, Bình Định, Bình Dương, Khánh Hòa, Ninh Bình, Hải Dương, Nghệ An, Bắc Ninh, An Giang, Kiên Giang, …..) ban hành giá dịch vụ thoát nước và tổ chức thực hiện (cũng có địa phương ban hành giá dịch vụ thoát nước song chưa tổ chức thực hiện do có một số điều kiện khách quan ). Mức giá dịch vụ thoát nước các đô thị đang áp dụng cho hộ gia đình thông thường cao hơn mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và dao động khoảng 1.000 đ/m3 – 2.600 đ/m3 (có thể tham khảo giá dịch vụ thoát nước ở đang áp dụng ở một số đô thị bảng dưới đây). Giá dịch vụ thoát nước được tính đúng, tính đủ thường cao hơn phí môi trường nhưng mới thực hiện nên có xây dựng lộ trình điều chỉnh mức thu hàng năm vì vậy mức thu vẫn thấp hơn so với giá đã tính đúng, tính đủ các chi phí và như vậy ngân sách địa phương vẫn phải bù cho chênh lệch này.

Bảng 1: Giá dịch vụ thoát nước của một số đô thị.
Khách hàng Giá dịch vụ thoát nước (đ/m3)
TP. Sơn La TP. Bắc Ninh TP. Vinh TP. Sóc Trăng TP. Nha Trang
Hộ gia đình 1.000 1.500 1.200 2.600 2.160
Hành chính, sự nghiệp. 1.000 1.500 1.600 2.600 3.240
Thương mại, dịch vụ 1.250 2.300 3.500 3.900 4.320
Đơn vị sản xuất 1.500 – 1.750 3.000 2.400 5.200 4.320
(Nguồn: Tổng hợp từ GIZ)

Bảng 2: Giá dịch vụ thoát nước và lộ trình giá của TP. Long Xuyên – Tỉnh An Giang
Khách hàng Giá dịch vụ thoát nước (đ/m3)
2020 2021/2022 2023/2024 2025/2026 2027/2028 2029/2030
Hộ gia đình 1.000 1.500 2.500 3.500 4.500 5.500
Hành chính, sự nghiệp. 2.000 3.000 5.000 7.000 9.000 11.000
Thương mại, dịch vụ 2.500 3.750 6.250 8.750 11.250 13.750
Đơn vị sản xuất 1.500 2.250 3.750 5.250 6.750 8.250
(Nguồn: QĐ số 3188/QĐ-UBND ngày 30/12/2019 UBND tỉnh An Giang)
 
3.2 Về triển khai Giá dịch vụ thoát nước tại một số địa phương
 
Tại TP. Hồ Chí Minh, Sở Xây dựng đang trình UBND TP. xem xét giá dịch vụ thoát nước trên địa bàn. Theo người viết bài bây giờ mới nghiên cứu, xem xét trình là quá chậm so với quy định của NĐ80/2014. Tuy nhiên có thể do phương pháp, hình thức, bước đi, cách làm và thời điểm hiện tại….. nên đang có nhiều ý kiến còn khác nhau.
 
Tại Hà Nội, ngày 24/12/2019, Ủy ban MTTQ Việt Nam TP. Hà Nội tổ chức hội nghị phản biện xã hội đối với dự thảo “Đề án giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Đề án được UBND Thành phố giao Sở Xây dựng chủ trì, xây dựng đề cương, kế hoạch và phương án xây dựng. Đề án giá dịch vụ thoát nước được xây dựng căn cứ vào tổng kinh phí đấu thầu, đặt hàng trong 5 năm (từ năm 2014 đến 2018) về duy trì hệ thống thoát nước, xử lý nước thải và kinh phí đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải và thoát nước của Thành phố. Theo đó, mức giá dịch vụ thoát nước sinh hoạt trên địa bàn Thành phố trung bình trong 5 năm (2014-2018) là 13.465 đồng/m3. Trên cơ sở kết quả điều tra, khảo sát lấy ý kiến của các đối tượng xả thải về dự thảo phương án giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải, liên Sở Xây dựng - Tài chính thống nhất đề xuất của Đề án về phương án thu giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải đối với đối tượng xả thải nước thải sinh hoạt.

Cụ thể, năm 2019, mức thu 20% đối với đối tượng nước phục vụ sinh hoạt có mức tiêu thụ nước hằng tháng dưới 30m3; 30% đối với đối tượng hộ dân có mức tiêu thụ hằng tháng trên 30m3, cơ quan sự nghiệp, công cộng, đơn vị sản xuất vật chất, kinh doanh. Lộ trình giá dịch vụ thoát nước/giá bán nước sạch mỗi năm tăng 5% từ năm 2020 đến 2023. Địa bàn thực hiện thu giá dịch vụ gồm 12 Quận và 9 Phường thuộc thị xã Sơn Tây. Với mức thu đề xuất như trên, đối với các hộ gia đình sử dụng nước sinh hoạt dưới 10m3/tháng sẽ phải trả từ 11.283 đồng/tháng/hộ (năm 2019) đến 22.566 đồng/tháng/hộ (năm 2023). Đối với hộ gia đình sử dụng nước sinh hoạt từ 30m3/tháng trở lên, mức chi trả 95.202 đồng/hộ/tháng (năm 2019)…...

Tại hội nghị, đa số các ý kiến đều cho rằng việc xây dựng phương án giá dịch vụ thoát nước trên địa bàn TP. Hà Nội là cần thiết, xuất phát từ nhu cầu cấp thiết thực tế, phù hợp với chủ trương xã hội hóa, góp phần giảm áp lực ngân sách nhà nước. Giá dịch vụ thoát nước có tác dụng khuyến khích ý thức sử dụng nước tiết kiệm trong nhân dân, tạo nguồn lực đầu tư cho hoạt động thoát nước và bảo vệ môi trường sống của Thủ đô. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, mức thu đề xuất này còn cao, cần tính toán lại mức thu và lộ trình thu để bảo đảm với khả năng chi trả của từng khu vực, đối tượng người dân...
 
Trong 12 năm qua (2005-2017) Tổ chức Hợp tác phát triển của Đức (GIZ) bằng Dự án hỗ trợ kỹ thuật thông qua Chương trình Quản lý thoát nước tại các tỉnh lỵ Việt Nam đã hỗ trợ cho các tỉnh thuộc chương trình xây dựng Giá dịch vụ Thoát nước (Sóc Trăng, Bắc Ninh, Hải Dương, Sơn La, Nghệ An, Bình Định….) và từ năm 2017 đến nay phối hợp cùng với Cục kinh tế liên bang Thụy sĩ (SECO) thông qua Chương trình thoát nước và chống ngập úng đô thị đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với Biến đổi khí hậu tiếp tục hỗ trợ các tỉnh vùng này xây dựng Giá dịch vụ thoát nước (2018-2020: 3 tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cà Mau và từ 2021 -2025 cho các tỉnh còn lại). Việc hỗ trợ này đã góp phần nâng cao năng lực của địa phương trong việc thực hiện các quy định của Chính phủ, huy động sự tham gia của cộng đồng góp ý kiến xây dựng giá dịch vụ đồng thời thực hiện trách nhiệm giám sát kiểm tra các hoạt động thoát nước trên địa bàn hiệu quả hơn.

4. Những bất cập/khó khăn trong quá trình thực hiện
 
Mặc dù ích lợi của xác định chi phí dịch vụ thoát nước và ban hành giá dịch vụ thoát nước rất rõ ràng và NĐ 80/2014 đã được ban hành từ năm 2014, nhưng đến nay số tỉnh thuộc nhóm 1 (mới chỉ áp dụng duy nhất phí bảo vệ môi trường) vẫn là phổ biến. Nhiều địa phương vẫn chưa quyết tâm triển khai thực hiện và ban hành giá dịch vụ thoát nước. Có thể kể đến những bất cập/khó khăn như sau:
 
- Nhận thức của Chính quyền các cấp trong việc nghiêm túc thực hiện NĐ 80/2014 chưa cao. Nhiều thành phố/đô thị mặc dù đã có hệ thống thoát nước khá hoàn chỉnh và đồng bộ nhưng vẫn không tổ chức xây dựng giá dịch vụ thoát nước. Theo thống kê vẫn còn đến 2/3 số lượng các tỉnh chưa tổ chức nghiên cứu hoặc ban hành giá dịch vụ thoát nước cho các đô thị trên địa bàn mình quản lý.
 
- Liên quan đến các văn bản quy định:  (1) Về tổ chức thu/ phương thức thu phí (NĐ53) và thu tiền dịch vụ thoát nước (NĐ80) chưa thống nhất. (2)Thiếu hoặc không đầy đủ định mức kinh tế/ kỹ thuật, định mức đơn giá/chi phí cho tất cả các hạng mục của hệ thống thoát nước ( bao gồm mạng lưới và các công trình đầu mối) làm cơ sở cho việc lập dự toán cho các hoạt động của hệ thống thoát nước, xác định chi phí và xây dựng giá. (3) Điểm 4 Điều 3 Thông tư số 13/2018/TT-BXD ngày 27/12/2018  Giá dịch vụ thoát nước xác định chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) – khi triển khai thực hiện gặp khó khăn (thuế VAT có thu hay không và nếu thu là bao nhiêu %) và ngay tại Thông tư này cũng có một số điểm bất cập cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung mới có tính khả thi.
 
- Tại các đô thị thiếu các dữ liệu về hiện trạng hệ thống thoát nước (tình trạng hoạt động của hệ thống thoát như chiều dài, đường kính cống thoát nước, số lượng và kích thước hố ga, quy mô nhà máy xử lý nước thải, trạm bơm v.v…). Chính quyền tại nhiều đô thị hầu như không có hồ sơ tài sản hệ thống thoát nước, không biết hệ thống thoát nước có những gì, giá trị đầu tư là bao nhiêu, chất lượng còn bao nhiêu %... điều này gây trở ngại cho công tác quản lý tài sản, xác định khối lượng công việc, chi phí vận hành làm căn cứ xác định giá dịch vụ thoát nước. 
 
- Theo nguyên tắc “ Người gây ô nhiễm phải trả tiền xử lý ô nhiễm” (quy định tại khoản 2 Điều 3 NĐ 80/2014), việc chung tay của người dân giúp giảm áp lực cho ngân sách, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống thoát nước đô thị để quay lại phục vụ tốt hơn cho môi trường sống và sinh hoạt của người dân, công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng nếu làm tốt công tác này thì công tác triển khai giá dịch vụ thoát nước sẽ hiệu quả hơn và đạt được sự đồng thuận của người dân, tuy nhiên trong thời gian qua chúng ta chưa làm tốt công tác này.
 
5. Thay lời kết
 
Đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước đô thị trước hết thuộc về trách nhiệm của chính quyền đô thị các cấp. Việc huy động các nguồn lực vào đầu tư xây dựng, quản lý vận hành hệ thống thoát nước đô thị đóng vai trò rất quan trọng. Ban hành và tổ chức thực hiện Giá dịch vụ thoát nước tại các đô thị giúp làm tăng nguồn thu cho hoạt động thoát nước, góp phần thuận lợi cho việc kêu gọi đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ thoát nước, giảm trợ cấp của ngân sách nhà nước đồng thời nâng cao ý thức và tăng cường trách nhiệm của người dân.
 
Các bất cập/khó khăn cần được tháo gỡ, các ý kiến đóng góp cần được giải thích đầy đủ trên cơ sở pháp lý, có lý có tình; công khai, minh bạch việc thu, sử dụng các nguồn thu qua đó mới tạo được sự đồng thuận từ đó mới thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Hy vọng sự vào cuộc của các cấp, ngành hoạt động của ngành nước tiếp tục được quan tâm hơn nữa trong thời gian tới. 
 
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG TIẾN
Nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng

Bài viết cùng chuyên mục